Tên di sản : Đình Hải Quật
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 4832/QĐ-UBND
Giới thiệu
Ban đầu, đình có cấu trúc hình chữ Đinh (J) gồm một nhà Tiền đình và một gian hậu cung thờ các vị thành hoàng làng đã có công lập ấp.
Hiện nay phần hậu cung không còn, chỉ còn lại nhà tiền đình có kiến trúc 5 gian với 6 vì kèo bằng gỗ lim. Phần đất của hậu cung trước kia giờ đây trở thành sân sau của đình và vẫn thuộc vào đất của đình.
Từ ngoài vào trong di tích đình Hải Quật có các công trình như sau:
Cổng đình: Trước kia, cổng đình được xây dựng bề thế gồm một cổng chính và hai cổng phụ, hai bên có hai cột nanh, trên đầu các trụ biểu có gắn hai con nghê. Tuy nhiên hiện tại cổng đình đã bị thay đổi hoàn toàn vì đình nằm ngay bên cạnh bờ Sông Cầu Chày nên hàng năm vào mùa nước lên cổng và sân đình thường bị sụt lún, cho nên người dân địa phương đã chuyển hai cột nanh ở sân đình gắn vào trước đình, cột nanh trước đình có ý nghĩa biểu thị quyền uy của vị thần được thờ trong đình.
Sân đình: Sân đình có diện tích khoảng 116m2, nền sân được lát hoàn toàn bằng gạch bát có kích thước cỡ 20cm x 20cm, quanh sân được bao bởi những bức tường gạch, xi măng thấp.
Nhà Tiền đình: Nhà tiền đình quay hướng Nam, xây trên nền cao hơn mặt sân khoảng 30cm. Xung quanh bó nền vỉa gạch, bờ hiện được bó lát bằng những phiến đá xanh to chạy hết chiều dài hiên.
Nhà tiền đình có kết cấu 5 gian, hai vì hồi bít đốc.
Ngôi đình có tổng số 24 cột gỗ đứng trên hệ thống chân tảng gồm 12 cột cái và 12 cột quân, bộ cột là hệ thống chịu lực của toàn bộ ngôi đình, nên trong khi chọn gỗ bộ cột được lựa chọn rất cẩn thận, nhất là các cột cái của đình.
Kích thước chân tảng Cột cái: 40cm x 40cm; chân tảng cột hậu: 35cm x 35cm; chân tảng cột con: 35cm x 35cm.
Khoảng cách từ cột cái đến cột cái: 2,5m
Khoảng cách từ cột cái đến cột quân hậu: 1,5m
Khoảng cách từ cột cái đến cột quân tiền: 1,5m
Khoảng cách giữa hai vì: 2,8m.
Kết cấu vì kèo:
Vì thứ 1 và vì thứ 6: được kết cấu theo kiểu chồng rường, giá chiêng. Hệ thống các các con rường chồng lên nhau tỉ lệ ngắn và thu hẹp dần theo kết cấu mái đối với một vì.
Vì thứ 2 và vì thứ 5 cân đối giống nhau. Tuy nhiên do yêu cầu cần ngăn đình ra một gian độc lập nên nhân dân đã thưng ván để ngăn cách với bốn gian còn lại, giống như là một vì thuận của những ngôi nhà ở truyền thống của người Việt.
Vì 3 và vì 4 là hai vì chính, kết cấu giống nhau theo kiểu kẻ chuyền. Ở đây cột cái nối với cột quân bằng xà nách. Trên xà nách có các con rường ăn mộng vào cột cái tạo thành tam giác vuông gọi là cốn. Phía trên cùng giáp nóc là rường Bụng lợn, trên bụng lợn là đấu kê đỡ đầu thượng lương. Liên kết bụng lợn và câu đầu là hai trụ tròn dưới có bát đấu. (Câu đầu là thanh xà lớn nối đầu cột cái hậu sang trụ trốn). Nối giữa cột cái hậu sang cột quân là xà nách, bộ kèo kẻ chuyên được cấu tạo bằng gỗ dáng cong lên phần trên chuyển qua các đầu cột trụ chịu lực. Phía trên là hệ thống ván dong chạy liền ra tàu mái, mặt trên ván dong bào phẳng theo chiều dốc mái, có bập các khấc để đặt hoành, mặt dưới lượn theo chiều cong của kẻ.
Kết cấu bộ khung mái gồm Thượng lương, hoành tải, rui, mè được làm bằng gỗ. Hoành là những xà gỗ dài gác trên bộ vì kèo chạy ngang theo chiều dài công trình. Một điều đáng chú ý là những ngôi đình xuất hiện vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, nên có hệ thống tường hồi bít đốc, không còn hai chái và hoành có xu hướng chuyển từ hình tròn sang hình vuông. Mái của đình được lợp ngói máy, bờ nóc trang trí trụ đấu và bờ chảy.
Nhìn một cách tổng quan thì đình làng Hải Quật có kiến trúc cân bằng ổn định để chế ngự thiên nhiên khắc nghiệt, vì môi trường thiên nhiên mà đặc biệt là vùng có khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa như nước ta cũng đòi hỏi trong quá trình xây dựng con người phải linh hoạt để thích ứng. Toàn bộ kiến trúc của đình được liên kết bằng mộng theo nguyên tắc lắp ghép rất linh hoạt để khi cần phải thay thế một bộ phận bị hư hỏng cũng thuận tiện mà không ảnh hưởng đến toàn bộ.
Về nghệ thuật trang trí:
Đình Hải Quật được tu bổ muộn nhất vào đầu thế kỷ XIX, những mảng chạm khắc trên những bức cốn, ván nong, đầu dư của các cột...không làm mờ đi những vẻ đẹp của kiến trúc mà ngược lại những mảng chạm khắc ấy làm cho ngôi đình trở nên lộng lẫy, đẹp đẽ nhưng vẫn giữ được sự đường bộ, uy nghi, thần bí và linh thiêng, nó làm cho ngôi đình trở nên mềm mại, uyển chuyển và nhẹ nhàng hơn. Đề tài trang trí ở ngôi đình mang chủ đề tứ linh, tứ quý mà đứng đầu là con rồng. Trong kiến trúc dân gian rồng là kiệt tác sáng tạo nghệ thuật, tổng hợp trong con rồng linh thiêng này là biểu tượng của trí tuệ, tín ngưỡng, niềm tin, lý tưởng, nguyện vọng và sức mạnh...Trên bức cốn của vì thứ nhất chạm bóng hình mặt rồng mắt lồi, mũi to bè, trán dô, miệng rộng. Trên các bức cốn của vì 3, vì 4 trang trí hoa văn hình rồng ẩn mây, điểm hình hoa lá, các đầu dư của cột cái trang trí hình đầu rồng, hoa văn hình đao lửa. Ngoài ra còn được trang trí hoa văn hoa lá, thể hiện sự gần gũi thiên nhiên của ngôi đình.
Các hiện vật trong di tích:
02 bát hương đá (cổ).
01 rùa đá cắm đế lọng (cổ)
01 thống đá (cổ).
10 tảng đá lan giai (cổ).
05 chân tảng đá (cổ).
01 khay (cổ).
01 bản sắc chỉ (niên hiệu Cảnh Hưng thứ 30 (1769)).
01 bảng danh (đại tự: Thông Minh Chính Trực, niên hiệu Bảo Đại thứ 18 (1943)) và nhiều hiện vật có giá trị khác.